Lần này, thật sự là xong cả rồi.

Hắn không chỉ đánh mất gia đình, mất danh tiếng, mà đến cả sự nghiệp mà hắn luôn tự hào nhất, cũng đã bị chính tay mình hủy hoại.

Giống như một con bạc trắng tay mất sạch vốn liếng, không còn đường lật ngược ván bài.

Tin tức Viễn Đại Khoa Kỹ bị loại khỏi danh sách hợp tác với Siemens chẳng khác nào quả bom tạ, khiến cả giới kinh doanh rung chuyển.

Giang Vĩ, với tư cách là người phụ trách chính dự án, đương nhiên trở thành tội đồ của công ty.

Hắn bị sa thải.

Không một xu bồi thường, không một lời nể mặt, bị tống ra khỏi công ty một cách nhục nhã nhất.

Thất nghiệp, mất uy tín, thân bại danh liệt.

Chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi, Giang Vĩ từ một tinh anh trung lưu đầy khí thế, rơi thẳng xuống thành một kẻ ai cũng muốn tránh xa như chuột chạy qua đường.

Hắn dọn về nhà mẹ vợ, trong một căn hộ hai phòng cũ nát ở khu phố cũ.

Bố mẹ của Lưu Mẫn không thèm che giấu sự khinh ghét đối với “con rể xui xẻo” này. Mỗi ngày không phải móc máy thì cũng bóng gió châm chọc.

“Hồi đó đúng là mù mắt, tưởng đâu vớ được rùa vàng, hóa ra là cái vỏ rỗng tuếch!”

“Chính mày không có bản lĩnh, chọc giận mẹ mày, giờ đến cả việc cũng mất, đúng là đồ vô dụng!”

Giang Vĩ trong căn nhà đó, địa vị còn thua cả con chó. Mỗi ngày ngoài việc hứng lấy ánh mắt ghét bỏ của bố mẹ vợ, còn phải chịu đựng sự phát điên của Lưu Mẫn.

“Giang Vĩ! Đồ phế vật! Mày nhìn lại mày đi! Hồi đó tao đúng là mù mới lấy mày!”

“Tất cả đều tại mày! Tại con mụ già chết tiệt là mẹ mày! Bà ta hủy hoại hết tất cả! Tao phải đi tìm bà ta liều mạng!”

Ngày nào nhà họ cũng ngập chìm trong những trận cãi vã không dứt, gà bay chó sủa, không lấy đâu ra được một chút bình yên.

Tình hình của Giang Nhạc cũng chẳng khá hơn.

Tuy rằng sau khi tôi ra mặt cầu xin, trường Đại học Munich không đuổi học nó, nhưng tội không đến mức chết thì cũng không thoát khỏi phạt.

Nhà trường phạt nó cảnh cáo, xóa tên khỏi mọi danh sách xét thưởng, xét học bổng. Trong trường, nó cũng trở thành trò cười bị chỉ trỏ sau lưng. Những bạn học người Đức từng ngưỡng mộ, vây quanh nó, nay nhìn nó bằng ánh mắt đầy khinh bỉ.

Tệ hơn nữa là, không còn học bổng, không còn được tôi chu cấp, chi phí sinh hoạt và học phí đắt đỏ ở Đức giờ thành tảng đá đè nặng lên hai vai bố mẹ nó.

Ngày nào Giang Nhạc cũng gọi điện về nhà khóc lóc đòi tiền.

“Mẹ ơi! Con không có tiền ăn rồi! Tiền thuê nhà cũng sắp đến hạn! Mẹ mau gửi tiền cho con đi!”

“Tiền tiền tiền, suốt ngày chỉ biết đòi tiền!” Lưu Mẫn nổi đóa qua điện thoại, “Bây giờ nhà mình lấy đâu ra tiền mà gửi cho mày? Bố mày còn đang thất nghiệp đấy! Muốn tiền thì đi mà xin bà nội tốt bụng của mày ấy!”

Hai mẹ con cách nhau cả nửa vòng Trái Đất, nhưng vẫn cãi nhau đến trời long đất lở.

Đứa con gái từng là niềm tự hào và hy vọng của họ, nay cũng trở thành gánh nặng to lớn không chịu nổi.

Cả nhà ba người, hoàn toàn rơi vào vòng xoáy đổ lỗi, oán trách, căm ghét lẫn nhau.

Còn tất cả những điều này, đều được luật sư Trương Hán thông qua các kênh riêng, từng chút từng chút một chuyển đến tai tôi.

Tôi nghe, chẳng có cảm giác gì cả.

Không cảm thấy hả giận, cũng chẳng thấy sung sướng.

Chỉ thấy — đáng thương.

Sớm biết ngày hôm nay, sao lúc trước còn cư xử như thế?

Còn cuộc sống của tôi, lại hoàn toàn trái ngược với cái “gia đình” đáng thương kia.

Công việc của tôi tại trường diễn ra vô cùng suôn sẻ. Lâm Chấn Thanh hết sức ủng hộ, giao toàn quyền cho tôi phụ trách tái thiết Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Trung – Đức.

Tôi lập lại phương hướng học thuật cho trung tâm, vạch ra một loạt đề tài nghiên cứu trọng điểm, còn nhờ mối quan hệ cá nhân, mời được mấy học giả Hán học nổi tiếng từ Đức sang giảng dạy ngắn hạn.

Sự trở lại của tôi như một luồng gió mới thổi bừng sức sống cho khoa Ngoại ngữ vốn đã im lìm suốt mấy năm.

Ban lãnh đạo nhà trường rất xem trọng tôi, đến cả hiệu trưởng cũng đích thân ra mặt, muốn phân cho tôi một căn hộ trong khu nhà chuyên gia.

Tôi từ chối.

Tôi đã nhờ Trương Hán xử lý việc rao bán căn hộ ở “Thế Kỷ Hào Đình”, đồng thời bắt đầu thu hồi căn tứ hợp viện tôi đã cho thuê suốt hai mươi năm.

Đã đến lúc trở về ngôi nhà thật sự của mình rồi.

Trong quá trình xử lý những việc này, tôi còn quen được một người trẻ thú vị.

Cậu ấy tên là Cố Ngôn, là người sáng lập một công ty đầu tư trẻ đang lên.

Chúng tôi quen nhau tại một buổi đấu giá từ thiện.

Buổi đấu giá đó nhằm quyên góp cho trẻ em nghèo vùng sâu vùng xa.

Tôi để mắt tới một bức tranh thủy mặc của họa sĩ hiện đại Ngô Quân Trung, vẽ về miền sông nước Giang Nam, khiến tôi nhớ về quê cũ.

Tôi vừa giơ bảng, liền nghe một giọng nam trẻ trung vang lên, ra giá cao hơn tôi mười vạn.

Tôi quay lại nhìn, là một người đàn ông rất trẻ và tuấn tú, tầm ba mươi tuổi, áo vest thẳng thớm, khí chất trầm ổn, nhưng trong mắt lại ánh lên nét sắc sảo đặc trưng của lớp trẻ.

Tôi khẽ cười, tiếp tục giơ bảng.

Cậu ta cũng không chịu thua, theo sát từng bước.

Cứ như vậy, hai chúng tôi kẻ tám lạng người nửa cân, nhanh chóng đẩy giá lên một mức khá cao.

Mọi ánh mắt trong khán phòng đều dồn cả về phía cặp “tranh bá” một già một trẻ này.

Cuối cùng, tôi dứt khoát cộng thêm một triệu.

Cậu ta khựng lại một chút, rồi mỉm cười tán thưởng nhìn tôi, buông bảng hiệu xuống.

Người dẫn chương trình đập búa tuyên bố kết quả.

Sau buổi đấu giá, người thanh niên tên Cố Ngôn đó chủ động bước đến bắt tay tôi.

“Giáo sư Trần, ngưỡng mộ đã lâu. Tôi là Cố Ngôn.” Nụ cười của cậu ta rất chân thành, “Vừa rồi trong phòng đấu có lỡ đường đột, mong cô bỏ quá cho. Chỉ là tôi thực sự rất thích bức tranh ấy, không ngờ cô cũng có cùng mắt nhìn.”

“Anh hùng cùng chung chí hướng mà thôi.” Tôi bắt tay cậu, ấn tượng rất tốt.

“Nói thật, hôm nay tôi đến đây, mục đích chính là để gặp cô.” Cố Ngôn không giấu giếm, “Tôi vẫn luôn theo dõi những chuyện về cô trên mạng. Tôi rất khâm phục cô.”

“Ồ?” Tôi hơi ngạc nhiên.